1. LỊCH SỬ TỬ VI TRUNG QUỐC
Từ xưa đến nay có rất nhiều người nghiên cứu tử vi trên thế giới, chưa có bộ sách nào, chưa có ai khám phá về nguồn gốc của Lịch sử tử vi - đó là một sự thật vì các thư tịch cổ đại của TQ đều không để lại một tài liệu nào cả. Trải qua nhiều thế hệ người ta mặc nhiên công nhận một điều đơn giản là: tử vi có nguồn gốc từ TQ do Hy Di Trần Đoàn sáng lập ra ở triều đại nhà Tống, người nghiên cứu tử vi thỏa mãn với điều đó và sẵn sàng bỏ qua quá trình lịch sử khi nó chưa ra đời. Một vấn đề được đặt ra là Trần Đoàn là ra tử vi trên cơ sở lý luận nào, trên nền tảng triết lý nhân sinh nào? hay chỉ là một phát kiến riêng của cá nhân ông. Muốn trả lời điều đó phải đi ngược dòng lịch sử để tìm kiếm nguyên nhân của nó. Ta biết rằng trước triều nhà Tống thì chính trị và tôn giáo chưa phân ra rõ nên trong triều đình có chức quan là "quan Chúc coi việc trời", tức là quan coi việc Thần quyền của triều đình , giống như ở Ai Cập có chức Pháp Lão, người Do Thái có chức Tế tự trưởng, Tây Tạng có chức Lạt Ma chuyên giữ đại chính trong nước. Nhiệm vụ chính của Quan Chúc ở Trung Quốc cổ đại là coi việc tế cúng trời đất để đại diện cho nhân dân mà tâu lên trời mà cầu xin mưa gió thuận hòa để quốc thái dân an. Việc thứ 2 của Quan Chúc là tìm ra Lịch pháp để nhà vua ban cho dân chúng sử dụng trong việc gieo trồng, chăn nuôi cho đúng thời vụ và cúng tế ngũ thần, trời đất cho đúng kỳ tiết.
Tóm lại trước nhà Tống, thì dân tộc TQ đã biết cách "hỏi ý kiến của trời" để mà hành sự cho đúng thời vụ của trời, như vậy khoa Chiêm Tinh (xem xét sự chuyển vận của các vì sao) đã xuất hiện và khoa Bói toán cũng đã hình thành rất sớm. Ở TQ thời Phục Hy đã có học thuyết về ÂM DƯƠNG, TỨ TƯỢNG, NGŨ HÀNH VÀ BÁT QUÁI, tức là Hà Đồ. Thời Văn Vương có Lạc Thư. Long Đồ và Quy Thư đã đúc kết về học thuyết âm dương, tứ tượng, ngũ hành và bát quái thành sách Dịch lý học Đông Phương. sách này thuở ban đầu là sách bói, sau này trở thành sách triết của vũ trụ quan và nhân sinh quan cuộc sống của vạn vật và con người. Xuất phát từ đó mà nó được ứng dụng rộng rãi trong đời sống chính trị, kinh tế và văn hóa của dân tộc Trung Hoa. Nhờ có nguyên lý đó mà các lĩnh vực thiên văn - lịch số - ngũ hành - bói toán - y hoc - trận đồ bát quái... được phát triển rầm rộ. Như vậy Hy Di Trần Đoàn sinh sau và lớn lên đã kế thừa tất cả các tinh hoa văn hóa của dân tộc TQ. Từ đó vốn tính thông thái bẩm sinh, xuất gia tu hành để có điều kiện tiếp thu cả một núi văn hóa vĩ đại. Ông thiên về nghiên cứu mối quan hệ giữa vũ trụ quan và nhân sinh quan và mục tiêu cuối cùng là tìm cho được vận mệnh con người, tốt xấu như thế nào.
Ngày nay ai cũng thừa nhận bản chất của tử vi là một môn khoa học có lý luận biện chứng, có nguồn gốc. Trong triều đại nhà Thanh, các văn thần trong Viện Tứ Khố Toàn thư đã sưu tập, tổng hợp biên soạn bộ: "Tử vi đại toàn" để dâng lên cho vua Cao Tông (niên hiệu Càn Long 41 - 1776).
Như vậy, tử vi đã có trước Trần Đoàn tiên sinh vào đời Đông Tấn, niên hiệu Vĩnh Hưng (304 năm sau tây lịch), tức là có trước 600 năm so với thời mà Trần Đoàn sinh ra. Tử vi bấy giờ chỉ là một mớ sơ khai, chưa s8a1p xếp có thứ tự nên chưa trở thành cơ sở lý luận cho người học. Sau này Trần Đoàn và các đệ tử của Ông mới sưu tập, hệ thống hóa và bổ túc thêm để cho hoàn chỉnh, vì thế người đời sau coi Ông là Tổ sư của Tử vi thì cũng thật là xứng đáng và chẳng có gì phải bàn cãi. Lời đối đáp của Hy Di Trần Đoàn với Tống Thái tổ như sau:
- "Quả nhân đã đọc Tử vi tình nghĩa của Tiên sinh. Tiên sinh là thần tiên khác phàm, trên cảm cùng trời, dưới thông cùng dân gian. Tiên sinh đã khai ngộ đặt ra từ bao giờ vậy?"
- Không phải Bần đạo đâu, Khoa tử vi uyên nguyên từ thời Đông Tấn, qua đời Lục triều vẫn chưa có quy tắc nhất định. Đời đường thịnh trị mấy trăm năm, không ai để tâm đến. Vừa qua thiên hạ đại loạn, thế sự thăng trầm, chết sống vô định, nên tử vi được san định lại. Bần đạo đọc 6 khoa: thiên văn, lịch phổ, ngũ hành, ngũ sự, tạp chiêm và hình tượng thấy cùng một gốc là vũ trụ biến dịch nên biên tập lại vậy, xưa kia các vị quan chúc đã tốn nhiều tâm lực nghiên cứu ra đấy (trích trong chương 1 của bộ Triệu thị minh thuyết tử vi kinh).
Đến đây thì khẳng định được rằng tử vi sơ khai có trước Trần Đoàn. 6 khoa mà Trần Đoàn nghiên cứu có chung nguồn gốc là sự biến dịch của vụ trụ quan có ảnh hưởng đến nhân sinh quan cuộc sống của con người. Đó là nguồn gốc cơ bản để hình thành số mệnh của con người mà ông đã để tâm và bỏ công sức tìm kiếm trong tử vi của mình.
Tại sao tử vi không được ghi vào sử sách của Trung Quốc cổ đại trước thời Trần Đoàn?. Tại vì chế độ phong kiến tập quyền của Trung Quốc cổ đại quy định những gì thuộc "tạp thư" thì không được ghi thành chính sử, trong đó gồm: TỬ VI - ĐỊA LÝ-NHÂM ĐỘN- BÓI DỊCH... là thuộc loại Tạp thư, cũng vì lý do này mà 4 khoa nói trên chỉ được lưu truyền trong các nhà nghiên cứu chuyên môn mang tính tâm truyền và bí truyền nên không được phổ biến rộng rãi trong dân chúng. Các lĩnh vực trên được coi là độc quyền sở hữu trí tuệ của một dòng họ hoặc một môn phái; đặc biệt là được giới quan lại cao cấp của chế độ quân chủ phong kiến kiểm soát và độc quyền sử dụng. Do vậy, trong khoảng 10 thế kỷ lưu truyền tử vi luôn luôn là một khoa học bí truyền, các bậc vua chúa, quan lại giữ làm của riêng để tìm các nhân tài phục vụ mình để mưu cầu quyền lợi riêng tư của bản thân. Các triều đại bên Trung Quốc như Tống - Minh-Nguyên- Thanh và các triều đại ở Việt Nam như Trần - Lê - Nguyễn đều xem tử vi là của báu riêng không truyền ra ngoài dân gian. Chiến tranh liên tục, các triều đại thay nhau kế vị nên tử vi cũng bị thất toán loạn lạc theo, một số ít còn lưu lại trong dân chúng thì được coi là của gia bảo của dòng họ nên không được truyền bá ra ngoài để mưu cầu tư lợi và chỉ được truyền lại cho con cháu trong nhà hoặc trong dòng họ để làm kế sinh nhai. Từ đây, tử vi chính thống mang dáng dấp của kinh tế thị trường nên làm mất hết các ý nghĩa cao quý của nó là tính nhân văn và dần dần trở thành nhảm nhí khi rơi vào tay những kẻ bất lực vô tài và thiếu lương tâm, đó là bọn bói bừa, phán bậy để kiếm sống.
Lịch sử tử vi không được lưu truyền trong chính sử Trung Quốc Việt Nam và một số nước khác vì tử vi có nguồn gốc từ Chúc Quan ở đời vua Hoàng Đế (2689 -2597 TCN). Thời đó các nho gia quan niệm Tử Vi là ma thuật, là thuật số nên không phải là chính thư, vậy không được ghi vào chính sử. Cụ thể, trong bộ Tống sử cũng không ghi chéo về tử vi. Thời Minh khoa tử vi rất thịnh hành mà trong bộ Minh sử cũng không hề chép một câu nào về tử vi. Như vậy, đối với lịch sử thì tử vi không được ghi nhận ở bất kỳ triều đại nào của bất kỳ quốc gia nào. Một nguyên nhân khác là người ta thích nghiên cứu Tử vi đến độ say mê thích thú mà không cần quan tâm đến lịch sử phát triển của nó, vì nếu nghiên cứu lịch sử của nó phải mất nhiều thời gian, công sức và lắm lúc cũng không cần thiết. Vì những lý do trên nên đến nay khoa Tử vi do ai đặt nền móng đầu tiên thì lịch sử không chứng minh được rõ ràng. Ngày nay chỉ căn cứ vào bộ tử vi đại toàn do các văn thần đời nhà Thanh dâng lên cho vua Càn Long (1736-1796), bài tựa có chép rằng: "bọn thần dâng vua tra cổ sử chỉ biết Tử Vi có từ đời Đông Tấn vào niên hiệu Vĩnh Hưng nguyên niên (304 sau tây lịch) nhưng chưa đặt căn bản. Đến đời Tống thái tổ cho mời đạo sĩ Trần Đoàn ở núi Phú Sơn vào chầu. Tiên sinh dùng khoa tử vi tính vận hạn cho triều thần trăm sự đều đúng cả". Vậy nên Tử vi có từ trước năm 963 là năm Tống thái tổ mời Hy Di Trần Đoàn tiên sinh vào cung để xem tử vi. Trong bộ sách "Triệu Thị Minh Thuyết Tử vi kinh", do con cháu đời nhà Tống có chép một chuyện như sau: "Tống Thái hậu gặp Hy Di ở núi Phú Sơn khi Thái hậu gánh 2 con mình chạy loạn. Tiên sinh hỏi niên canh bát tự tức là năm, tháng, ngày, giờ sinh của 2 đứa nhỏ và phán rằng: bà phúc đức lắm, hai người con sau này đều là đấng minh quân bình thiên hạ. Thái hậu tạ ơn mà nói rằng lời nói của ngài chỉ là lời nhạo báng, hai con tôi đang đói khổ đây, ngài có gì cứu giúp được không?. Tiên sinh đáp rằng: sau này hai con bà đều làm vua, bà thiếu gì dịp ban ơn cho thiên hạ, giang sơn này là của bà cả. Bây giờ bà bán cho tôi hòn núi này đi để lấy 10 lượng vàng mà tiêu. Thái hậu đồng ý vì nghĩ rằng ông đạo sĩ này "điên" vì có ai đi mua níu bao giờ. Bà xé vạt áo của Thái Tổ - Thái Tông cột vào làm văn tự đưa cho Trần Đoàn tiên sinh.
Sau khi thống nhất giang sơn vào niên hiệu Càn - Đức nguyên niên (963), quan địa phương báo về triều rằng có đạo sĩ Hi Di ở núi Phú Sơn đuổi quân thu thuế về và nói rằng núi này Thái hậu đã bán cho ông ta. Thái tổ hỏi lại sự tích thì Thái Hậu nhất nhất thuật lại sự việc cũ. Thái tổ cảm cái ân đức 10 nén vàng xưa kia mà xuống chiếu miễn thuế cho toàn địa hạt núi Phú Sơn. Triều thân cho là bậc kỳ tài và đón về kinh để hỏi về việc quá khứ vị lai của các quan trong triều. Tháng 10 năm ấy Tiên sinh vào triều, Thái Hậu, Thái Tổ và văn thần võ tướng đều được tiên sinh tính số tử vi cho biết quá khứ vị lai của từng người đều đúng cả. Tiên sinh có dâng lên Thái Tổ bộ sách "Tử vi Tình nghĩa" do ngài và các đệ tử của ngài sưu tập quan các đời, chỉnh sửa và biên soạn. Từ đó các bậc vương hầu, khanh tướng trong triều đều được học tập, sau này cứ mỗi đời thêm vào một ít, chỉnh sửa và bổ túc thêm bằng các kinh nghiệm thực tế để cho hoàn hảo. Bậc đế vương học tư vi để biết kẻ trung người nịnh mà phân biệt để dùng người (Trích triệu thị minh thuyết tử vi kinh quyển 1).
Như vậy, Tử vi có nguồn gốc xuất xứ từ các Quan Chúc của các triều đại trước nhà Tống, và từ khi Hi Di Trần Đoàn dâng bộ "Tư vi Tình Nghĩa" cho Thái tổ thì hậu thế sau này xem đó là nguồn gốc lịch sử của tử vi. Điều này là chính đáng vì tử vi đã được hệ thống hóa có cơ sở lý luận rõ ràng, có thực tiễn để chứng minh và có cái mốc lịch sử cụ thể, đặc biệt được hậu thế công nhận, học tập và truyền thụ cho mãi tới tận ngày nay. Khoa tử vi đã được chính thức lưu truyền từ đời nhà Tống (960) đến đời nhà Thanh (1644), trải qua 684 năm suốt trong gần 7 thế kỷ và cho tới tận ngày nay. Trong khoảng thời gian dài đó thì tử vi ở Trung Quốc không ngừng được phát triển, bổ túc và không ngừng năng động, sáng tạo để phù hợp với thực tiễn và có điều kiện luận bàn mang tính dân chủ rộng rãi nhằm làm cho tử vi hoàn thiện hơn. Vì vậy, ở Trung Quốc hình thành các trường phái tử vi như: Phái Triệu Gia do con cháu đời nhà Tống, Phái Hà Lạc do học trò của Hi Di Trần Đoàn ở phía bắc Trung Quốc, pháo Âm Dương Gia do học trò của Hi Di Trần Đoàn ở phía Nam Trung Quốc. Phái tử vi đại toàn của nhà Thanh. sơ lược các phái này như sau:
Sơ lược các trường phái tử vi Trung Quốc:
- Phái Triệu Gia: đây là chính phái tử vi được Hi Di Trần Đoàn dâng bộ "Tử vi tình nghĩa" cho Tống Thái tổ. Thái tổ truyền lại cho các bậc Vương, hầu trong hoàng tộc và chỉ truyền cho những người tôn thất họ Triệu, vì thế có sách lưu truyền là "Triệu thị minh thuyết tử vi kinh" trên nền tảng cơ bản "tử vi tình nghĩa" của Trần Đoàn. Khoa tử vi lưu truyền trong đời nhà Tống và được con cháu trong hoàng tộc họ Triệu bổ sung thêm các kinh nghiệm cho hoàn chỉnh hơn. Sau khi nhà Tống mất nhưng con cháu vẫn còn giữ được bộ sách đó, vì thế người đời sau dùng chữ Triệu là họ tôn thất của nhà Tống để đặt tên cho trường phái này.
- Phái Hà Lạc: Sau khi Trần Đoàn tiên sinh mất. các đệ tử của ông chia làm 2 phái: phái đi về phương Nam chịu ảnh hưởng của học thuyết Hà Đồ Lạc Thư, học thuyết bàn đầu là bói toán, vì vậy phái này chịu ảnh hưởng của bói toán và chỉnh sửa tử vi bằng cách thêm vào một số sao mới rất quái dị và vô lý của khoa bói dịch như sao THIÊN GIẢI, ĐỊA GIẢI, THIÊN QUAN, THIÊN PHÚC, THIÊN THỌ, THIÊN TRÙ... Những người trong phái này dùng tử vi để kiếm sống. Vì lý do này mà họ không truyền lại cái hay, cái tinh túy của Trần Đoàn. Họ giữ lại một số bí thuật làm gia bảo của mình để kiếm sống cho nên làm cho tử vi bị sai lệch đi khi dân chúng muốn tìm hiểu. Vì thế mà lâu ngày phái này mất hẳn cái gốc ban đầu của Hi Di Trần Đoàn mặc dù kinh nghiệm của họ rất nhiều và phong phú. Vì không được truyền lạicho hậu thế nên bị tàn lụi đi. Các công trình của phái này được chép trong bộ tử vi âm dương chính nghĩa ở thời Nam Tống.
Comments