top of page
  • Facebook
  • Youtube
  • TikTok
  • Instagram

Kết quả tìm kiếm

Đã tìm thấy 2 mặt hàng cho ""

  • LỊCH SỬ TỬ

    1. LỊCH SỬ TỬ VI TRUNG QUỐC Từ xưa đến nay có rất nhiều người nghiên cứu tử vi trên thế giới, chưa có bộ sách nào, chưa có ai khám phá về nguồn gốc của Lịch sử tử vi - đó là một sự thật vì các thư tịch cổ đại của TQ đều không để lại một tài liệu nào cả. Trải qua nhiều thế hệ người ta mặc nhiên công nhận một điều đơn giản là: tử vi có nguồn gốc từ TQ do Hy Di Trần Đoàn sáng lập ra ở triều đại nhà Tống, người nghiên cứu tử vi thỏa mãn với điều đó và sẵn sàng bỏ qua quá trình lịch sử khi nó chưa ra đời. Một vấn đề được đặt ra là Trần Đoàn là ra tử vi trên cơ sở lý luận nào, trên nền tảng triết lý nhân sinh nào? hay chỉ là một phát kiến riêng của cá nhân ông. Muốn trả lời điều đó phải đi ngược dòng lịch sử để tìm kiếm nguyên nhân của nó. Ta biết rằng trước triều nhà Tống thì chính trị và tôn giáo chưa phân ra rõ nên trong triều đình có chức quan là "quan Chúc coi việc trời", tức là quan coi việc Thần quyền của triều đình , giống như ở Ai Cập có chức Pháp Lão, người Do Thái có chức Tế tự trưởng, Tây Tạng có chức Lạt Ma chuyên giữ đại chính trong nước. Nhiệm vụ chính của Quan Chúc ở Trung Quốc cổ đại là coi việc tế cúng trời đất để đại diện cho nhân dân mà tâu lên trời mà cầu xin mưa gió thuận hòa để quốc thái dân an. Việc thứ 2 của Quan Chúc là tìm ra Lịch pháp để nhà vua ban cho dân chúng sử dụng trong việc gieo trồng, chăn nuôi cho đúng thời vụ và cúng tế ngũ thần, trời đất cho đúng kỳ tiết. Tóm lại trước nhà Tống, thì dân tộc TQ đã biết cách "hỏi ý kiến của trời" để mà hành sự cho đúng thời vụ của trời, như vậy khoa Chiêm Tinh (xem xét sự chuyển vận của các vì sao) đã xuất hiện và khoa Bói toán cũng đã hình thành rất sớm. Ở TQ thời Phục Hy đã có học thuyết về ÂM DƯƠNG, TỨ TƯỢNG, NGŨ HÀNH VÀ BÁT QUÁI, tức là Hà Đồ. Thời Văn Vương có Lạc Thư. Long Đồ và Quy Thư đã đúc kết về học thuyết âm dương, tứ tượng, ngũ hành và bát quái thành sách Dịch lý học Đông Phương. sách này thuở ban đầu là sách bói, sau này trở thành sách triết của vũ trụ quan và nhân sinh quan cuộc sống của vạn vật và con người. Xuất phát từ đó mà nó được ứng dụng rộng rãi trong đời sống chính trị, kinh tế và văn hóa của dân tộc Trung Hoa. Nhờ có nguyên lý đó mà các lĩnh vực thiên văn - lịch số - ngũ hành - bói toán - y hoc - trận đồ bát quái... được phát triển rầm rộ. Như vậy Hy Di Trần Đoàn sinh sau và lớn lên đã kế thừa tất cả các tinh hoa văn hóa của dân tộc TQ. Từ đó vốn tính thông thái bẩm sinh, xuất gia tu hành để có điều kiện tiếp thu cả một núi văn hóa vĩ đại. Ông thiên về nghiên cứu mối quan hệ giữa vũ trụ quan và nhân sinh quan và mục tiêu cuối cùng là tìm cho được vận mệnh con người, tốt xấu như thế nào. Ngày nay ai cũng thừa nhận bản chất của tử vi là một môn khoa học có lý luận biện chứng, có nguồn gốc. Trong triều đại nhà Thanh, các văn thần trong Viện Tứ Khố Toàn thư đã sưu tập, tổng hợp biên soạn bộ: "Tử vi đại toàn" để dâng lên cho vua Cao Tông (niên hiệu Càn Long 41 - 1776). Như vậy, tử vi đã có trước Trần Đoàn tiên sinh vào đời Đông Tấn, niên hiệu Vĩnh Hưng (304 năm sau tây lịch), tức là có trước 600 năm so với thời mà Trần Đoàn sinh ra. Tử vi bấy giờ chỉ là một mớ sơ khai, chưa s8a1p xếp có thứ tự nên chưa trở thành cơ sở lý luận cho người học. Sau này Trần Đoàn và các đệ tử của Ông mới sưu tập, hệ thống hóa và bổ túc thêm để cho hoàn chỉnh, vì thế người đời sau coi Ông là Tổ sư của Tử vi thì cũng thật là xứng đáng và chẳng có gì phải bàn cãi. Lời đối đáp của Hy Di Trần Đoàn với Tống Thái tổ như sau: - "Quả nhân đã đọc Tử vi tình nghĩa của Tiên sinh. Tiên sinh là thần tiên khác phàm, trên cảm cùng trời, dưới thông cùng dân gian. Tiên sinh đã khai ngộ đặt ra từ bao giờ vậy?" - Không phải Bần đạo đâu, Khoa tử vi uyên nguyên từ thời Đông Tấn, qua đời Lục triều vẫn chưa có quy tắc nhất định. Đời đường thịnh trị mấy trăm năm, không ai để tâm đến. Vừa qua thiên hạ đại loạn, thế sự thăng trầm, chết sống vô định, nên tử vi được san định lại. Bần đạo đọc 6 khoa: thiên văn, lịch phổ, ngũ hành, ngũ sự, tạp chiêm và hình tượng thấy cùng một gốc là vũ trụ biến dịch nên biên tập lại vậy, xưa kia các vị quan chúc đã tốn nhiều tâm lực nghiên cứu ra đấy (trích trong chương 1 của bộ Triệu thị minh thuyết tử vi kinh). Đến đây thì khẳng định được rằng tử vi sơ khai có trước Trần Đoàn. 6 khoa mà Trần Đoàn nghiên cứu có chung nguồn gốc là sự biến dịch của vụ trụ quan có ảnh hưởng đến nhân sinh quan cuộc sống của con người. Đó là nguồn gốc cơ bản để hình thành số mệnh của con người mà ông đã để tâm và bỏ công sức tìm kiếm trong tử vi của mình. Tại sao tử vi không được ghi vào sử sách của Trung Quốc cổ đại trước thời Trần Đoàn?. Tại vì chế độ phong kiến tập quyền của Trung Quốc cổ đại quy định những gì thuộc "tạp thư" thì không được ghi thành chính sử, trong đó gồm: TỬ VI - ĐỊA LÝ-NHÂM ĐỘN- BÓI DỊCH... là thuộc loại Tạp thư, cũng vì lý do này mà 4 khoa nói trên chỉ được lưu truyền trong các nhà nghiên cứu chuyên môn mang tính tâm truyền và bí truyền nên không được phổ biến rộng rãi trong dân chúng. Các lĩnh vực trên được coi là độc quyền sở hữu trí tuệ của một dòng họ hoặc một môn phái; đặc biệt là được giới quan lại cao cấp của chế độ quân chủ phong kiến kiểm soát và độc quyền sử dụng. Do vậy, trong khoảng 10 thế kỷ lưu truyền tử vi luôn luôn là một khoa học bí truyền, các bậc vua chúa, quan lại giữ làm của riêng để tìm các nhân tài phục vụ mình để mưu cầu quyền lợi riêng tư của bản thân. Các triều đại bên Trung Quốc như Tống - Minh-Nguyên- Thanh và các triều đại ở Việt Nam như Trần - Lê - Nguyễn đều xem tử vi là của báu riêng không truyền ra ngoài dân gian. Chiến tranh liên tục, các triều đại thay nhau kế vị nên tử vi cũng bị thất toán loạn lạc theo, một số ít còn lưu lại trong dân chúng thì được coi là của gia bảo của dòng họ nên không được truyền bá ra ngoài để mưu cầu tư lợi và chỉ được truyền lại cho con cháu trong nhà hoặc trong dòng họ để làm kế sinh nhai. Từ đây, tử vi chính thống mang dáng dấp của kinh tế thị trường nên làm mất hết các ý nghĩa cao quý của nó là tính nhân văn và dần dần trở thành nhảm nhí khi rơi vào tay những kẻ bất lực vô tài và thiếu lương tâm, đó là bọn bói bừa, phán bậy để kiếm sống. Lịch sử tử vi không được lưu truyền trong chính sử Trung Quốc Việt Nam và một số nước khác vì tử vi có nguồn gốc từ Chúc Quan ở đời vua Hoàng Đế (2689 -2597 TCN). Thời đó các nho gia quan niệm Tử Vi là ma thuật, là thuật số nên không phải là chính thư, vậy không được ghi vào chính sử. Cụ thể, trong bộ Tống sử cũng không ghi chéo về tử vi. Thời Minh khoa tử vi rất thịnh hành mà trong bộ Minh sử cũng không hề chép một câu nào về tử vi. Như vậy, đối với lịch sử thì tử vi không được ghi nhận ở bất kỳ triều đại nào của bất kỳ quốc gia nào. Một nguyên nhân khác là người ta thích nghiên cứu Tử vi đến độ say mê thích thú mà không cần quan tâm đến lịch sử phát triển của nó, vì nếu nghiên cứu lịch sử của nó phải mất nhiều thời gian, công sức và lắm lúc cũng không cần thiết. Vì những lý do trên nên đến nay khoa Tử vi do ai đặt nền móng đầu tiên thì lịch sử không chứng minh được rõ ràng. Ngày nay chỉ căn cứ vào bộ tử vi đại toàn do các văn thần đời nhà Thanh dâng lên cho vua Càn Long (1736-1796), bài tựa có chép rằng: "bọn thần dâng vua tra cổ sử chỉ biết Tử Vi có từ đời Đông Tấn vào niên hiệu Vĩnh Hưng nguyên niên (304 sau tây lịch) nhưng chưa đặt căn bản. Đến đời Tống thái tổ cho mời đạo sĩ Trần Đoàn ở núi Phú Sơn vào chầu. Tiên sinh dùng khoa tử vi tính vận hạn cho triều thần trăm sự đều đúng cả". Vậy nên Tử vi có từ trước năm 963 là năm Tống thái tổ mời Hy Di Trần Đoàn tiên sinh vào cung để xem tử vi. Trong bộ sách "Triệu Thị Minh Thuyết Tử vi kinh", do con cháu đời nhà Tống có chép một chuyện như sau: "Tống Thái hậu gặp Hy Di ở núi Phú Sơn khi Thái hậu gánh 2 con mình chạy loạn. Tiên sinh hỏi niên canh bát tự tức là năm, tháng, ngày, giờ sinh của 2 đứa nhỏ và phán rằng: bà phúc đức lắm, hai người con sau này đều là đấng minh quân bình thiên hạ. Thái hậu tạ ơn mà nói rằng lời nói của ngài chỉ là lời nhạo báng, hai con tôi đang đói khổ đây, ngài có gì cứu giúp được không?. Tiên sinh đáp rằng: sau này hai con bà đều làm vua, bà thiếu gì dịp ban ơn cho thiên hạ, giang sơn này là của bà cả. Bây giờ bà bán cho tôi hòn núi này đi để lấy 10 lượng vàng mà tiêu. Thái hậu đồng ý vì nghĩ rằng ông đạo sĩ này "điên" vì có ai đi mua níu bao giờ. Bà xé vạt áo của Thái Tổ - Thái Tông cột vào làm văn tự đưa cho Trần Đoàn tiên sinh. Sau khi thống nhất giang sơn vào niên hiệu Càn - Đức nguyên niên (963), quan địa phương báo về triều rằng có đạo sĩ Hi Di ở núi Phú Sơn đuổi quân thu thuế về và nói rằng núi này Thái hậu đã bán cho ông ta. Thái tổ hỏi lại sự tích thì Thái Hậu nhất nhất thuật lại sự việc cũ. Thái tổ cảm cái ân đức 10 nén vàng xưa kia mà xuống chiếu miễn thuế cho toàn địa hạt núi Phú Sơn. Triều thân cho là bậc kỳ tài và đón về kinh để hỏi về việc quá khứ vị lai của các quan trong triều. Tháng 10 năm ấy Tiên sinh vào triều, Thái Hậu, Thái Tổ và văn thần võ tướng đều được tiên sinh tính số tử vi cho biết quá khứ vị lai của từng người đều đúng cả. Tiên sinh có dâng lên Thái Tổ bộ sách "Tử vi Tình nghĩa" do ngài và các đệ tử của ngài sưu tập quan các đời, chỉnh sửa và biên soạn. Từ đó các bậc vương hầu, khanh tướng trong triều đều được học tập, sau này cứ mỗi đời thêm vào một ít, chỉnh sửa và bổ túc thêm bằng các kinh nghiệm thực tế để cho hoàn hảo. Bậc đế vương học tư vi để biết kẻ trung người nịnh mà phân biệt để dùng người (Trích triệu thị minh thuyết tử vi kinh quyển 1). Như vậy, Tử vi có nguồn gốc xuất xứ từ các Quan Chúc của các triều đại trước nhà Tống, và từ khi Hi Di Trần Đoàn dâng bộ "Tư vi Tình Nghĩa" cho Thái tổ thì hậu thế sau này xem đó là nguồn gốc lịch sử của tử vi. Điều này là chính đáng vì tử vi đã được hệ thống hóa có cơ sở lý luận rõ ràng, có thực tiễn để chứng minh và có cái mốc lịch sử cụ thể, đặc biệt được hậu thế công nhận, học tập và truyền thụ cho mãi tới tận ngày nay. Khoa tử vi đã được chính thức lưu truyền từ đời nhà Tống (960) đến đời nhà Thanh (1644), trải qua 684 năm suốt trong gần 7 thế kỷ và cho tới tận ngày nay. Trong khoảng thời gian dài đó thì tử vi ở Trung Quốc không ngừng được phát triển, bổ túc và không ngừng năng động, sáng tạo để phù hợp với thực tiễn và có điều kiện luận bàn mang tính dân chủ rộng rãi nhằm làm cho tử vi hoàn thiện hơn. Vì vậy, ở Trung Quốc hình thành các trường phái tử vi như: Phái Triệu Gia do con cháu đời nhà Tống, Phái Hà Lạc do học trò của Hi Di Trần Đoàn ở phía bắc Trung Quốc, pháo Âm Dương Gia do học trò của Hi Di Trần Đoàn ở phía Nam Trung Quốc. Phái tử vi đại toàn của nhà Thanh. sơ lược các phái này như sau: Sơ lược các trường phái tử vi Trung Quốc: - Phái Triệu Gia: đây là chính phái tử vi được Hi Di Trần Đoàn dâng bộ "Tử vi tình nghĩa" cho Tống Thái tổ. Thái tổ truyền lại cho các bậc Vương, hầu trong hoàng tộc và chỉ truyền cho những người tôn thất họ Triệu, vì thế có sách lưu truyền là "Triệu thị minh thuyết tử vi kinh" trên nền tảng cơ bản "tử vi tình nghĩa" của Trần Đoàn. Khoa tử vi lưu truyền trong đời nhà Tống và được con cháu trong hoàng tộc họ Triệu bổ sung thêm các kinh nghiệm cho hoàn chỉnh hơn. Sau khi nhà Tống mất nhưng con cháu vẫn còn giữ được bộ sách đó, vì thế người đời sau dùng chữ Triệu là họ tôn thất của nhà Tống để đặt tên cho trường phái này. - Phái Hà Lạc: Sau khi Trần Đoàn tiên sinh mất. các đệ tử của ông chia làm 2 phái: phái đi về phương Nam chịu ảnh hưởng của học thuyết Hà Đồ Lạc Thư, học thuyết bàn đầu là bói toán, vì vậy phái này chịu ảnh hưởng của bói toán và chỉnh sửa tử vi bằng cách thêm vào một số sao mới rất quái dị và vô lý của khoa bói dịch như sao THIÊN GIẢI, ĐỊA GIẢI, THIÊN QUAN, THIÊN PHÚC, THIÊN THỌ, THIÊN TRÙ... Những người trong phái này dùng tử vi để kiếm sống. Vì lý do này mà họ không truyền lại cái hay, cái tinh túy của Trần Đoàn. Họ giữ lại một số bí thuật làm gia bảo của mình để kiếm sống cho nên làm cho tử vi bị sai lệch đi khi dân chúng muốn tìm hiểu. Vì thế mà lâu ngày phái này mất hẳn cái gốc ban đầu của Hi Di Trần Đoàn mặc dù kinh nghiệm của họ rất nhiều và phong phú. Vì không được truyền lạicho hậu thế nên bị tàn lụi đi. Các công trình của phái này được chép trong bộ tử vi âm dương chính nghĩa ở thời Nam Tống.

  • HÀNH TRÌNH TRẢI NGHIỆM ĐI 4 KHÓA THIỀN TRONG 5 NĂM

    KỲ I: KHÓA THIỀN ĐẦU TIÊN: “MÌNH ĐANG LÀM CÁI QUÁI GÌ Ở ĐÂY VẬY?!” Thời gian vừa rồi T vừa hoàn thành xong khóa thiền Tứ Niệm Xứ 9 ngày tịnh khẩu tại Gosinga Thiên Phước, dưới sự hướng dẫn của thiền sư Nguyên Tuệ. Đây là lần thứ 4 T đi thiền. Cả 4 lần đều ở những địa điểm khác nhau và học từ những vị thầy khác nhau. Nhân dịp này, suy ngẫm lại hành trình đi thiền của mình có nhiều điều thú vị “ngộ” ra nên hôm nay dành thời gian để chia sẻ với mọi người về hành trình trải nghiệm các khoá thiền trong khoảng thời gian 5 năm vừa qua. Các khoá mình đi lần lượt là: - 2019: Khoá thiền Vipassana 10 ngày của hệ thống thiền sư SN Goenka ở Củ Chi - 2022: Khoá thiền 10 ngày của sư cô Giới Hiền ở Phước Sơn Đồng Nai - 2023: Khoá thiền 10 ngày của sư cô Hằng Liên ở Đồng Nai - 2024: Khoá thiền Tứ Niệm Xứ 9 ngày của thiền sư Nguyên Tuệ ở Gosinga Thiên Phước Đồng Nai —- Bắt đầu với Khóa thiền đầu tiên trong cuộc đời - Bước ngoặt chạm đến con đường Đạo Khóa thiền đầu tiên T đi là khóa Thiền Vipassana ở Củ Chi do thiền sư S.N Goenka giảng dạy theo truyền thống của ngài Sayagyi U Ba Khin. (Là hệ thống Thiền Vipassana quốc tế và cũng là khóa duy nhất hiện tại ở VN mình biết có dạy song ngữ Anh - Việt) Thực tế là chỉ nghe lại ghi âm lời hướng dẫn của thiền sư Goenka. Còn người hỗ trợ trực tiếp là 2 thiền sư từ nước ngoài bay về VN. [Mình sẽ không nói sâu về phương pháp và thời khoá, các thông tin này bạn có thể tìm hiểu trên web đều có chi tiết.] Khi ấy là vào tầm cuối tháng 8 năm 2019. Để nói về cơ duyên thì tại thời điểm đó, T vừa trải qua cơn rối loạn cảm xúc nặng nề trong một thời gian dài đến mức ho hộc máu tươi, được chẩn đoán bị lao phổi và phải uống thuốc điều trị 6 tháng liên tục. (Fun Fact: Tự nhiên mới xem lại thấy năm ấy là cũng rơi đúng vào năm cá nhân số 2 - năm của sự kết nối nội tâm - đúng kiểu đỉnh điểm của sự hỗn loạn cảm xúc) Sau giai đoạn đó, T quyết định đi tìm lối thoát cho trạng thái bế tắc đau khổ vật vã trong nội tâm này. Lý do chủ yếu là vì liên quan đến gia đình và những vấn đề chất chứa dồn nén trong suy nghĩ nội tâm từ nhỏ đến lớn. (Hồi đó vừa căm ghét bản thân, vừa muốn chạy trốn cả thế giới này). Đúng kiểu khi con người ta trải qua trạng thái khổ đau cùng cực thì sẽ giống như người chết đuối cố vẫy vùng tìm đường sống bằng mọi giá vậy. Khi bắt đầu khởi tâm thì cơ duyên dẫn lối, T tình cờ xem được 1 Vlog của một bạn Youtuber chia sẻ về thiền Vipassana. Khoảnh khắc vừa nghe nhắc đến thiền, T xác định chắc chắn đây chính là con đường, là lối thoát cho mình trong thời điểm hiện tại rồi. Một lý do khác T chọn thiền là vì T muốn chọn phương pháp nào đó trung lập, trung đạo, không mang tính chất tôn giáo. Từ khi biết nhận thức, T đã quyết định lựa chọn không theo tôn giáo nào cả. Vì T cảm nhận tôn giáo đang vận hành và dẫn dắt người ta dễ rơi vào sự mê tín hơn là tỉnh táo. Vậy nên dù đây là phương pháp thiền theo con đường của Đức Phật - nhưng khoá thiền không liên quan đến thực hành theo tôn giáo đạo Phật, không thực hành tụng kinh trì chú - Không yêu cầu phải theo đạo, phải cải đạo. Rất trung đạo. Dù bạn theo đạo nào hay không theo đạo nào cũng có thể thiền được. Vậy là T quyết định xin nghỉ công việc gắn bó hơn 4 năm để đăng ký đi thiền. ---- Khóa thiền của hệ thống của Thiền sư S.N.Goenka chắc là khoá thiền có tỷ lệ chọi cao nhất VN . Hồi đó mỗi lần đăng ký là phải thức canh đúng 0h để điền thông tin, y như đăng ký tín chỉ học ĐH ngày xưa (Nhưng cạnh tranh hơn rất nhiều) Đăng ký mà hồi hộp kinh khủng. Cả 2 lần đăng ký T đều rơi vào danh sách chờ (nghĩa là đã full người, khi nào có thiền sinh huỷ đăng ký, có chỗ trống thì mình mới được cân nhắc để xét duyệt tham gia) May mắn là lần thứ 2 thì được xét duyệt. Không biết có phải vì hồi đó do T viết email gửi khoá thiền liên tục, tha thiết mong mỏi được tham gia nên BTC cũng mủi lòng ưu tiên chăng?! Tha thiết hừng hực khí thế vậy đó, nhưng khi tham gia khóa thiền, trong mấy ngày đầu tiên thật là những trải nghiệm kinh khủng! Mọi thứ ban đầu trái ngược hoàn toàn so với những gì T tưởng tượng. ---- Theo quy định, khi vào khoá thiền, bạn không được phép sử dụng bất kỳ phương tiện thông tin liên hệ hay giải trí nào (Không điện thoại, không viết lách, không đọc sách, không tập thể dục, không tụng niệm…) và cần tịnh khẩu trong suốt thời gian tham gia khoá. Nghĩa là bạn phải giữ im lặng trong suốt thời gian 9-10 ngày đêm ở khoá thiền. (Không giao tiếp bao gồm cả việc không được giao tiếp bằng mắt, bằng cử chỉ ra dấu, viết giấy, hoặc bất kỳ hình thức nào khác). Ngoại trừ nếu cần hỗ trợ việc riêng thì được viết giấy gửi cho BTC. Mục đích là để trong thời gian này bạn chỉ dành thời gian tập trung vào bên trong mình và chỉ mình mà thôi. Thời khoá từ sáng 4:30 đến tối 8:30, trong khoảng 9-10 tiếng sẽ là thời gian ngồi thiền trong thiền đường (Tất nhiên vẫn có thời gian để ăn uống, nghỉ giải lao, tắm giặt… nhưng rất là sít sao và nghiêm ngặt) Khoảnh khắc hạnh phúc nhất trong những ngày đầu với T là thời gian được nghỉ giải lao vài phút, ra sân ngắm cây ngắm lá và khi tới giờ ăn, được ăn đồ ăn ngon . Còn lại xuyên suốt trong những ngày đầu là cảm giác hối hận! Cũng dễ hiểu. Vì đang ở ngoài đời tung tăng vui vẻ, buồn chán thì đi chơi, đi ăn uống, nhậu nhẹt, bù khú la cà với bạn bè; được lướt điện thoại, xem phim, ca nhạc giải trí, du lịch, đọc sách… Đùng một cái vào khoá thiền bị tước bỏ hết những trải nghiệm đó, vậy nên sự hụt hẫng là điều khó tránh khỏi. Nó giống như đang được tiêm dopamin liên tục vào người quen rồi, tự nhiên bị lấy mất đi vậy. Khi đó T tự trách bản thân rất nhiều: Rốt cuộc mình đang làm cái quái gì ở đây vậy. Sao nó không vui vẻ, bình an, giải thoát như mình nghĩ mà Cảm giác như bị cầm tù, bị giam lỏng vậy?! Vì sao lại bỏ hết tất cả bạn bè, gia đình, CV, người yêu, cuộc sống… để đi vào đây chỉ để ngồi không làm chi huhu! Thật vô nghĩa…! Hối hận quá! Biết vậy không đi rồi!... Bla bla… Thế nhưng lỡ đâm lao phải theo lao. T lúc đó tự an ủi mình, thôi thì lỡ rồi - cứ cố ở đây đến 10 ngày rồi về. Đó chính xác là cảm giác trong 3-4 ngày đầu tiên khi T tham gia khóa thiền đầu tiên. Không có cảm giác nào khác ngoài CHÁN và HỐI HẬN cả! Ấy vậy mà sau đó, mọi thứ bắt đầu biến chuyển theo một cách kỳ diệu. --- Khi bị cắt hết kết nối, không còn cái gì để hướng ra bên ngoài nữa thì người ta không còn cách nào khác là phải quay vào bên trong để đối diện với chính mình. Những ngày tiếp theo sau đó, T bắt đầu tập trung thực hành thiền theo hướng dẫn. Lúc này những cảm giác, cảm xúc được chôn giấu, đè nén bấy lâu liên tục ồ ạt khởi lên. Có những câu chuyện, những cảm giác mà T nghĩ là mình đã quên từ đời nảo đời nào rồi, đã tha thứ rồi, rằng nó không còn có thể mảy may tác động đến mình được nữa… lại quay về khuấy đảo khiến lòng dậy sóng. Vậy là T khóc như mưa khi nhớ lại những trải nghiệm đó. Chắc không phải mình T có trải nghiệm đó, vì trong lúc thiền ngoài tiếng ngáy ra thì T cũng nghe thấy nhiều tiếng sụt sùi, thút thít xung quanh Và đây cũng là thời điểm mà sự tham muốn, những tưởng tượng, ký ức, sự đòi hỏi của thân tâm này nổi lên mạnh mẽ. Lúc đó có rất nhiều câu hỏi băn khoăn và sự lo lắng khởi lên bên trong T, đi hỏi thiền sư thì thiền sư chỉ nói là không sao cả, bất kỳ cái gì nổi lên - dù cho đó là điều xấu xa tồi tệ thế nào đi nữa... hãy cứ quan sát và thực hành theo hướng dẫn. Vậy là T cứ liên tục thực hành theo hướng dẫn như vậy trong nhiều ngày. Đến tối trước khi ngủ thì nghe audio lời dạy của thiền sư Goenka. Cho đến ngày thứ 7 hay thứ 8 gì đó (Vì 5 năm rồi nên cũng không nhớ chính xác về thời gian lắm), T trải nghiệm một trạng thái mà suốt cuộc đời cũng chẳng thể nào quên được. Lần đầu tiên T thấy bên trong có cảm giác nhẹ nhõm, hạnh phúc và bình an như vậy. Cảm giác này nó lạ lắm - Nó không đến từ bất cứ điều gì bên ngoài - không đến từ bất kỳ niềm vui hay phần thưởng nào bên ngoài. Nó thực sự xuất phát từ chính nội tâm - không vì điều gì cả. Bao nhiêu chất chứa được đào thải hết, được tha thứ hết, được buông xả hết. Giống như trút bỏ được gánh nặng mấy trăm kí lô T đã mang vác theo từ nhỏ tới lớn vậy. Cho đến ngày thứ 9, thứ 10 thì bên trong T ngập tràn tình yêu thương và lòng biết ơn với sự sống này, với thế giới này. Ngay khoảnh khắc đó, T mở mắt ra nhìn mọi thứ, cảnh vật xung quanh và thấy rằng: Mọi thứ chưa bao giờ tươi mới, rõ ràng, sáng trong, thanh khiết và kỳ diệu đến như vậy. Nó giống như trạng thái bạn đi một chặng đường rất là dài, mắt bạn bị che phủ bởi rất nhiều lớp cát bụi mờ mịt, cả cái kính bạn đeo cũng mờ nhoè vì bụi bẩn và các vết xước…khiến bạn chẳng nhìn thấy gì rõ ràng cả... sau khi được gột rửa, lau chùi, thì cả đôi mắt và cả cái kính bạn đeo bỗng trở nên trong vắt, sáng rõ! Cảm giác lâng lâng, nhẹ nhàng bay bổng, an nhiên và đầy xúc động thật khó diễn tả bằng lời. Đó là lần đầu tiên trong cuộc đời T trải nghiệm những trạng thái cảm xúc mỹ diệu và đầy rung động như vậy. ---- Trở về sau khóa thiền là khoảng thời gian cuộc đời T thay đổi hoàn toàn. T nhìn cuộc sống với con mắt hoàn toàn khác. Nếu trước đây ghét và chối bỏ, không muốn liên hệ với gia đình bao nhiêu thì sau đó T bắt đầu kết nối, nói chuyện lại được với gia đình trở lại. Bắt đầu thấu hiểu cho người thân, tha thứ và chấp nhận chính mình và mọi người xung quanh nhiều hơn. T như được sống lại với cảm giác hồn nhiên, vô tư thời trẻ thơ. Và quan trọng là bên trong T cảm nhận sự an yên và thoải mái thực sự - không còn là sự chịu đựng, dồn nén, sống với nhiều lớp vỏ bọc như trước đây nữa.. Không còn cảm giác tự ti, oán trách, dằn vặt, ghét bỏ chính mình. T thay đổi đến mức người thân cũng lấy làm ngạc nhiên! Và sau khoá thiền, T nhận ra một sự thật sâu sắc rằng: Thì ra bấy lâu nay gần như tất cả mọi đau khổ bên trong đều do tâm trí này mà ra. Bấy lâu nay mình sống với thế giới cảm xúc do mình tự tưởng tượng ra. Và chỉ cần mình nhận ra và thay đổi cái nhìn - thay đổi cái thấy biết của mình thì tự nhiên cuộc đời mình thay đổi hoàn toàn. Nếu không nhờ cơ duyên tham gia khóa thiền - không nhờ 10 ngày ngắt kết nối với thế giới bên ngoài để toàn tâm toàn ý quay về bên trong, để kết nối lại với chính mình, thì không biết đến bao giờ T mới nhận ra được Sự Thật này. Chắc là T sẽ còn ngụp lặn, nhấn chìm mình trong cuộc sống và những suy nghĩ tiêu cực một thời gian dài không biết bao giờ mới dứt. Vậy nên khi nhắc đến Thiền, T luôn cảm thấy biết ơn vô bờ và luôn nói với mọi người rằng việc tham gia khóa thiền đầu tiên chính là bước ngoặt và là quyết định đúng đắn nhất cuộc đời T từ trước đến giờ. Đó chính xác là bước ngoặt làm thay đổi cuộc đời T, theo một hướng hoàn toàn khác, mãi mãi… --- Và từ đó T cũng hiểu được lý do vì sao khoá thiền lại phải là tối thiểu 9-10 ngày liên tục. Vì sao lại phải ngắt kết nối với tất cả thế giới bên ngoài. Vì sao lại cần tịnh khẩu - giữ im lặng xuyên suốt ngày đêm. Vì nhỏ đến lớn, một hành trình dài chúng ta sống đã tích tụ rất nhiều "bụi trong mắt", Đã đắp lên người rất nhiều lớp vỏ bọc, cái TÔI giả tạo, đã hấp thu một cách có ý thức hoặc vô thức vô cùng nhiều niềm tin, định kiến sai lệch... Vậy nên thời gian đầu tham gia khoá thiền là lúc chúng ta được thanh lọc thực sự từ gốc rễ. Chưa kể là thời gian mấy ngày đầu cực kỳ CHÁN và đau khổ (Như T đã kể trên). Rất nhiều bạn cũng muốn đi thiền đã liên hệ hỏi T rằng có khoá nào ngắn ngày hơn không? Dài ngày qua thì rất khó sắp xếp được. Thực sự khoá thiền bây giờ nhiều lắm, muốn 2-3 ngày cũng có. Thế nhưng nếu chỉ tham gia 3,4 ngày, hay thậm chí 5,6 ngày đi nữa thì cũng chỉ như đi nghỉ dưỡng, cưỡi ngựa xem hoa mà thôi. Vậy nên nếu bạn đã thực sự quyết tâm và muốn tham gia thì hãy tự hỏi chính mình, điều mình thực sự cần là gì? Mình đang cần giải pháp hoá giải từ cốt lõi để tự giải thoát chính mình - để không lặp lại vòng lặp đau khổ như trước đây, Hay bạn chỉ đang cần liệu pháp xoa dịu, chữa lành tạm thời trên bề mặt? Để rồi yên ổn một thời gian ngắn xong rồi đâu lại vào đấy? — Đôi lời nhắn nhủ: Tất cả những điều T chia sẻ ở đây đều hoàn toàn là cảm nhận CÁ NHÂN - từ trải nghiệm, góc nhìn của riêng bản thân T trong thời gian qua. Có nghĩa là nó đúng và chỉ đúng với T - thậm chí là những cảm nhận này cũng chỉ đúng với “T ở thời điểm đó” - Còn T ở thời điểm hiện tại, chưa chắc đã có cùng cảm nhận như vậy. Vì mỗi người chúng ta đều có cấu trúc ADN - thông tin di truyền, cấu tạo cơ thể, căn cơ, duyên nghiệp, hoàn cảnh, tri thức, kinh nghiệm, góc nhìn, xu hướng tính cách, sự cảm nhận,… khác nhau - và nó luôn thay đổi theo từng sát na, từng phút giây, từng giai đoạn cuộc đời. Và cả những đối tượng bạn kết nối ở thời điểm đó cũng sẽ không giống với cùng đối tượng đó ở một thời điểm khác. Vậy nên trải nghiệm sẽ hoàn toàn khác nhau ở mỗi người. Việc so sánh, đối chiếu giữa trải nghiệm bản thân với của người khác là sự so sánh hoàn toàn khập khiễng và không chính xác. Không có trải nghiệm nào là hoàn toàn đúng hay hoàn toàn phù hợp với tất cả mọi người. Nên nếu trải nghiệm, góc nhìn, cảm nhận của bạn có khác hay trái ngược với T hay với bất kỳ ai khác thì đó là điều HIỂN NHIÊN và HẾT SỨC BÌNH THƯỜNG. Dù bạn có học từ ai, làm theo ai, tin tưởng ai đi chăng nữa… thì Hành trình của mỗi người đều là hành trình Đơn Độc - Một Mình - Tự mình đi và tự mình chứng thực trên thân tâm này. Hãy nhớ, Bạn và trải nghiệm của bạn là DUY NHẤT. ---- Khép lại trải nghiệm khi tham gia khóa Thiền lần đầu tiên, Rất nhiều chuyển biến theo hướng tích cực, nhưng điều đó không có nghĩa là từ đó về sau cô ấy sống hạnh phúc vui vẻ mãi mãi :))) Hành trình chỉ mới bắt đầu. Hẹn các bạn ở kỳ tới: Ảo tưởng về Thiền Sự thật về Thiền - Thiền thực sự là gì? Trải nghiệm khoá thiền 10 ngày của sư cô Giới Hiền và sư cô Hằng Liên Trải nghiệm khóa thiền Tứ Niệm Xứ của thầy Nguyên Tuệ ở Gosinga Câu chuyện đưa mẹ đi thiền và cái kết dở khóc dở cười :))) - Thảo Moony -

bottom of page